Tên lửa và du hành không gian Hermann Oberth

Một con tem Paraguay kỷ niệm 85 năm ngày sinh của Oberth có mặt con tàu huyền thoại USS Enterprise (NCC-1701) của Star Trek.

Trong các năm 1928 và 1929, Oberth còn làm việc ở Berlin trong vai trò là nhà tư vấn khoa học cho bộ phim Frau im Mond ("Người phụ nữ trên Mặt Trăng"), được đạo diễn và sản xuất bởi nhà tiên phong điện ảnh vĩ đại Fritz Lang tại công ty Universum Film AG. Bộ phim này có giá trị to lớn trong việc phổ biến các ý tưởng về tên lửa và thám hiểm không gian. Một trong những nhiệm vụ chính của Oberth là chế tạo và phóng tên lửa như một sự kiện công khai ngay trước khi bộ phim ra mắt. Ông cũng thiết kế mô hình của Friede, tên lửa chính được miêu tả trong phim.

Ngày 5 tháng 6 năm 1929, Oberth đã giành giải nhất (Robert Esnault-Pelterie - André-Louis Hirsch) Prix REP-Hirsch của Hội Thiên văn học Pháp vì đã thúc đẩy du hành vũ trụ trong cuốn sách Wege zur Raumschiffahrt ("Đường vào Du hành Không gian") đã mở rộng Die Rakete zu den Planetenräumen thành một cuốn sách dài như thường lệ.[12] Cuốn sách này[13] được đề tặng cho Fritz LangThea von Harbou.[14]

Vào mùa thu năm 1929, Oberth đã tiến hành bắn tĩnh điện động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng đầu tiên của mình, mà ông đặt tên là Kegeldüse. Động cơ được Klaus Riedel chế tạo trong một công xưởng được cung cấp bởi Viện Công nghệ Hóa học Reich, và dù không có hệ thống làm mát, nhưng nó đã chạy được trong thời gian ngắn.[15] Ông đã được giúp đỡ trong thí nghiệm này bởi một sinh viên 18 tuổi tên là Wernher von Braun, sau này trở thành cây đại thụ trong cả ngành kỹ thuật tên lửa của Đức và Mỹ từ những năm 1940 trở đi, đỉnh cao là tên lửa Saturn V khổng lồ khiến con người có thể hạ cánh trên Mặt Trăng vào năm 1969 và trong vài năm sau đó. Thật vậy, Von Braun đã nói về ông như sau:

Hermann Oberth là người đầu tiên, khi nghĩ về khả năng hiện thực hóa của tàu vũ trụ đã nắm lấy thước loga và trình bày các khái niệm và thiết kế được phân tích về mặt toán học.... Tôi, bản thân tôi, nợ ông ấy không chỉ là ngôi sao dẫn đường của cuộc đời tôi, mà còn là mối liên hệ đầu tiên của tôi với các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn của tên lửa và du hành không gian. Một nơi danh dự nên được dành riêng trong lịch sử khoa học và công nghệ cho những đóng góp đột phá của ông ấy trong lĩnh vực du hành không gian.[3]

Năm 1938, gia đình Oberth rời khỏi Sibiu, România, trước tiên, tới định cư ở Áo, sau cư trú tại nước Đức Quốc xã, rồi dời sang Mỹ, và cuối cùng trở về một nước Đức tự do. Bản thân Oberth đã chuyển đến Technische HochschuleVienna, Áo, sau đó đến Technische Hochschule ở Dresden, Đức. (Technische Hochschule tại thời điểm đó là một trường địa học kỹ thuật cung cấp khóa đào tạo chuyên nghiệp nâng cao trong các lĩnh vực được chọn, thay vì là một thiết chế cũng tham gia vào nghiên cứu cơ bản như một viện đại học.)

Oberth chuyển đến Peenemünde, Đức, vào năm 1941 để làm việc trong chương trình tên lửa Aggregate. Vào khoảng tháng 9 năm 1943, ông đã được trao giải Kriegsverdienstkreuz I Klasse mit Schwertern (Thập tự giá Chiến công Cấp 1, với Kiếm) vì "hành vi dũng cảm, xuất sắc... trong suốt cuộc tấn công" vào Peenemünde trong Chiến dịch Hydra, một phần của Chiến dịch Crossbow.[16]

Về sau ông tập trung vào việc chế tạo tên lửa phòng không sử dụng nhiên liệu rắn tại tổ chức quân sự WASAG của Đức gần Wittenberg. Vào khoảng cuối Thế chiến II ở châu Âu, gia đình Oberth dời sang thị trấn Feucht, nằm gần Nuremberg, nơi trở thành một phần thuộc Vùng chiếm đóng của Mỹ, và cũng là nơi diễn ra các phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh cấp cao của các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã còn sống sót. Oberth được phép rời khỏi Nuremberg chuyển sang Thụy Sĩ vào năm 1948, nơi ông làm tư vấn độc lập và viết văn.

Năm 1950, Oberth chuyển đến Ý, nơi ông đã hoàn thành một số công việc mà ông đã bắt đầu tại tổ chức WASAG cho Hải quân Ý mới. Năm 1953, Oberth quay trở lại Feucht, Đức, để xuất bản cuốn sách Menschen im Weltraum (Con người tiến vào Vũ trụ), trong đó ông mô tả ý tưởng của mình về kính thiên văn phản xạ ngoài không gian, trạm vũ trụ, tàu vũ trụ chạy bằng điện và bộ đồ phi hành gia.

Trong những năm 1950 và 1960, Oberth đã nêu ý kiến ​​của mình về vật thể bay không xác định (UFO). Ông là người ủng hộ giả thuyết ngoài Trái Đất về nguồn gốc của UFO được nhìn thấy trên Trái Đất. Ví dụ, trong một bài báo trên tạp chí The American Weekly ngày 24 tháng 10 năm 1954, Oberth tuyên bố, "Luận điểm của tôi rằng đĩa bay là có thật, và chúng là tàu không gian từ một hệ mặt trời khác. Tôi nghĩ rằng chúng có thể được điều khiển bởi các nhà quan sát thông minh là thành viên của một chủng tộc có thể đã điều tra Trái Đất của chúng ta trong nhiều thế kỷ..." [17] Ông cũng đã viết một bài báo trong ấn bản thứ hai của tờ Flying Saucer Review có tựa đề "They Come From Outer Space" (Họ đến từ ngoài Vũ trụ). Ông đã thảo luận về lịch sử của những báo cáo về "vật thể phát sáng kỳ lạ" trên bầu trời, đề cập rằng trường hợp được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử là "Shining Shields" (Khiên Sáng) do Pliny Già kể lại. Ông viết, "Đã cân nhắc tất cả các ưu và nhược điểm, tôi thấy lời giải thích về các đĩa bay từ ngoài vũ trụ là khả năng nhất. Tôi gọi đây là giả thuyết "Uraniden", bởi vì theo quan điểm của chúng tôi, các sinh vật dựa trên giả thuyết này dường như đến từ bầu trời (tiếng Hy Lạp – 'Uranos')." [18]

Cuối cùng, Oberth đến làm việc cho học trò cũ của mình, Wernher von Braun, người đang phát triển tên lửa không gian cho NASAHuntsville, Alabama. (Xem thêm Danh sách nhà khoa học tên lửa Đức tại Mỹ). Trong số những thứ khác, Oberth đã tham gia vào việc viết bản nghiên cứu, The Development of Space Technology in the Next Ten Years (Sự phát triển của Công nghệ Không gian trong Mười năm tới). Năm 1958, Oberth quay trở lại Feucht, Đức, nơi ông công bố ý tưởng của mình về một phương tiện thám hiểm Mặt Trăng gọi là "lunar catapult", và trên trực thăng và máy bay "bớt kêu". Năm 1960, trở lại nước Mỹ một lần nữa, Oberth đến làm việc cho Tập đoàn Convair với tư cách là cố vấn kỹ thuật cho chương trình tên lửa Atlas.